Cô nhìn lên. Thấy toàn những gương mặt lạ lẫm, lòng cảm thấy cô độc. Không phải bởi mình người da trắng độc nhất—thực tình thì cô thấy hãnh diện vì điều đó. Một số đứa bạn thân nhất của cô ở trường khác cũng là dân da đen, Tây Ban Nha, Châu Á, thổ dân Mỹ—cùng vài đứa da trắng bần tiện chơi kiểu ngoài mặt thì thân thiết còn trong lòng thì đố kỵ ganh ghét. Không, chắc là không phải điều này. Cô cảm thấy lạc lõng chắc vì đây là chốn thành thị. Cô đứng trên đường bê tông. Tiếng chuông báo hiệu như cảnh tỉnh bản thân cô đang ở “chốn giải trí”, rồi cô phải đi qua một cánh cổng sắt lớn. Và giờ cô đã ở trong chiếc lồng có cánh cửa sắt, trên cùng có dây thép gai quây quanh. Cô thấy như mình đã đi vào chốn lao tù.
Ngước nhìn ngôi trường rộng lớn, trên toàn bộ những cánh cửa sổ đều có các chắn song và ô cửa, cũng không làm cô thấy khá hơn. Thường thì cô dễ dàng thích nghi khi đến một ngôi trường mới, dù lớn hay nhỏ—nhưng đó là những ngôi trường ở vùng ngoại ô. Tất cả những nơi đó đều có những thảm cỏ, cây cối và bầu trời quang đãng. Ở đây, chẳng có gì ngoài cái mác thành phố. Cô cảm giác ngột ngạt, khó thở. Mọi thứ đều kinh khủng đối với cô.
Tiếng chuông báo hiệu nữa vang lên và cô lê bước trên đường, cạnh đó là hàng trăm học sinh, đổ xô về phía những lối vào. Cô bị một nữ sinh to lớn xô đẩy một cách thô bạo, và làm rơi cuốn nhật ký. Cô nhặt nó lên (tóc xõa tung che cả khuôn mặt), ngước lên nhìn đợi chờ một lời xin lỗi từ cô gái đó. Nhưng nàng ta đã mất hút, hòa lẫn vào trong đám đông, rồi cô nghe thấy những tiếng cười, không biết có phải dành cho mình hay không.
Cô ôm chặt cuốn nhật ký vào lòng, kỷ vật đã ghi lại những dấu ấn về cô. Nó đã theo cô khắp mọi nơi. Những dòng ghi chú và những bản vẽ về những nơi cô ghé từng qua. Quyển nhật ký là hành trình tuổi thơ của cô.
Cuối cùng cô cũng đến chỗ lối vào, và phải ép chặt người để bước qua. Giống như bước vào chuyến tàu trong giờ cao điểm vậy. Cô hi vọng vào trong sẽ ấm ấp hơn, nhưng cánh cửa mở thông thốc phía sau làm cô lạnh cứng người khi có những cơn gió nhẹ xuyên qua người chạy dọc sống lưng, làm cho cái lạnh càng tồi tệ hơn nữa.
Hai nhân viên an ninh to lớn đứng chắn lối vào, hỗ trợ mỗi bên là hai nhân viên cảnh sát Thành phố New York vũ trang đầy đủ, để lộ súng đeo bên hông.
“ÐI TIẾP ÐI!” một trong số họ ra lệnh.
Cô không hiểu tại sao lại có hai nhân viên cảnh sát đi kèm vũ trang đầy đủ đứng gác ở lối vào trường trung học làm gì. Nỗi sợ hãi về chết chóc trong cô tăng dần. Tệ hơn nữa là khi cô quan sát thấy phải đi qua chiếc máy dò kim loại có nhân viên an ninh như ở sân bay.
Thêm bốn cảnh sát vũ trang đầy đủ đứng ở hai bên chiếc máy dò kim loại, tiếp đến là hai nhân viên an ninh nữa.
“BỎ TẤT CẢ ÐỒ ÐẠC RA NGOÀI!” một nhân viên ra lệnh.
Caitlin chú ý thấy những đứa khác lấy đồ từ túi của chúng ra để vào trong chiếc hộp nhựa dẻo. Cô nhanh chóng làm theo, cho ipod, ví, chìa khóa của mình vào trong hộp.
Cô bước qua máy dò tín hiệu, chuông báo động ré lên.
“CÔ!” một nhân viên quát. “Ðứng sang phía này!”
Ðược thôi.
Lũ học sinh chăm chú nhìn khi cô bị bắt đưa tay lên, một nhân viên bảo vệ dùng máy quét rà soát lên xuống khắp người cô.
“Cô có đeo trang sức không?”
Cô nhớ lại từ cổ tay, đến cổ, và chợt nhớ. Cây thánh giá của cô.
“Tháo nó ra”, gã nhân viên an ninh gắt lên.
Ðó là chiếc vòng cổ mà bà cô tặng trước khi qua đời, một cây thánh giá nhỏ bằng bạc, khắc trên đó dòng chữ Latin, thứ ký hiệu cô không tài nào hiểu được. Bà cô nói rằng bà được truyền lại từ cụ cô. Caitlin không theo tôn giáo nào, và không thực sự hiểu nổi ý nghĩa của nó là gì, nhưng cô biết rằng nó đã có niên đại hàng trăm năm tuổi, là món đồ quý giá nhất mà cô có.
Caitlin nhấc nó ra từ chiếc áo sơ mi, giơ lên cao, nhưng không gỡ ra khỏi cổ.
“Tôi không muốn tháo ra”, cô đáp lời.
Gã nhân viên an ninh mặt lạnh tanh trừng mắt nhìn cô.
Bỗng dưng, có tiếng láo loạn vang đến. Tiếng la hét om sòm khi một gã cớm tóm cổ một thằng nhóc cao và gầy nhẳng, đè nghiến nó vào tường, móc ra một con dao nhỏ từ túi nó.
Gã nhân viên an ninh lao đến trợ giúp, và Caitlin chớp lấy cơ hội lẩn nhanh vào đám đông đi xuống hội trường
Chào mừng đến trường công New York, Caitlin nghĩ. Quả là hay ho.
Cô cũng nhẩm tính luôn ngày tốt nghiệp rồi.
*
Tất cả các giảng đường đều rộng lớn nhất mà cô từng thấy. Cô không tượng tưởng nổi bao nhiêu người mới trật kín được nơi này, nhưng nếu có thể nhồi nhét tụi học sinh đứng sát vai, chen chúc nhau. Chắc phải chứa được hàng nghìn đứa trong những giảng đường như này, biển người chen chúc kéo dài bất tận. Sự ồn ào ở đây còn kinh khủng hơn, tiếng ồn ào vang vọng vào các bức tường rồi bật lại, âm thanh trở nên đặc quánh. Cô muốn bịt chặt tai lại, nhưng thậm chí chẳng có đủ khoảng không để mà nhấc nổi tay lên. Cô cảm thấy thật tù túng.
Tiếng chuông vang lên, sức nóng cũng dường như cũng tăng theo.
Trễ mất rồi.
Cô nhìn lướt qua tấm thẻ phòng học lần nữa và cuối cùng từ khoảng cách này cô cũng nhận thấy căn phòng đó. Cô cố gắng chen lấn qua biển người đang chen chúc nhau, nhưng chẳng có khoảng không nào có thể len qua được. Cuối cùng, sau những nỗ lực bất thành, cô nhận ra mình phải hành động quyết liệt hơn. Cô bắt đầu dùng khuỷa tay để tạo đà chen lấn. Cố gắng lách qua từng người, rồi cô cũng vượt qua được tất cả tụi học sinh, băng qua hội trường rộng lớn, và đẩy cánh cửa nặng nề vào trong lớp học của mình.
Cô gắng chấn tĩnh lại để đối phó với những ánh nhìn khi mà cô, một cô gái mới đến, đi học trễ. Cô tưởng tượng giáo viên sẽ trách phạt mình vì tội làm gián đoạn giờ học yên tĩnh của lớp. Nhưng thật bất ngờ khi cô nhận ra rằng nó không hề giống với suy nghĩ của mình chút nào. Phòng học, được thiết kế cho ba mươi người nhưng phải có đến năm mươi người nhồi nhét trong đó. Có những đứa đang yên vị trên ghế, những đứa khác thì nhởn nhơ ở lối đi giữa lớp, la hét và quát tháo lẫn nhau. Khung cảnh thật là lộn xộn.
Chuông báo đã vang lên từ năm phút trước rồi, mà chưa thấy giáo viên, có mái tóc bù xù, đi kèm bộ com lê nhăn nhúm, bắt đầu vào tiết học. Anh ta thậm chí còn ngồi vắt chân lên bàn, nhẩn nha đọc báo, mặc xác lũ học sinh.
Catilin bước tới chỗ anh ta và đặt tấm thẻ học sinh lên bàn. Cô đứng đó, đợi chờ anh ta ngước lên, nhưng chẳng có động tĩnh gì từ anh ta cả.
Cuối cùng cô hắng giọng.
“Thưa thầy”.
Anh ta uể oải đặt tờ báo xuống.
“Em là Caitlin Paine. Học sinh mới chuyển đến. Em đến để nhận lớp”.
“Tôi chỉ là trợ giảng” anh ta đáp lại, rồi tiếp tục đưa báo lên đọc, bỏ mặc cô đứng chết chân.
Cô đứng đó, tâm trạng rối bời.
“Vậy”, cô hỏi, “…anh không phải giáo viên phụ trách sao?”
“Thầy giáo sẽ quay lại lớp vào thứ Hai”, giọng anh ta cáu bẳn. “Ông ấy sẽ xử lý việc này”.
Nhận ra cuộc nói chuyện đã kết thúc, Caitlin cầm lại tấm thẻ học sinh.
Cô quay lại và nhìn xuống lớp. Cảnh mất trật tự vẫn không ngừng tiếp diễn. Nếu có điều gì gọi là an ủi, có lẽ là việc cô không bị ai xăm soi. Chẳng đứa nào thèm quan tâm đến sự có mặt của cô, dù chỉ là cái liếc mắt.
Còn nữa là cảm giác bất an, khi mà cô chiếu mắt khắp căn phòng chật cứng người này, dường như chẳng còn chỗ trống để ngồi.
Cô tự trấn an, tay ôm khư khư cuốn nhật ký, bước rụt rè xuống lối đi của lớp học, ngập ngừng một lúc rồi chen chân qua chỗ tụi học sinh ngang ngược đang la hét ỏm tỏi. Khi xuống đến phía cuối lớp, cô có thể bao quát trọn căn phòng.
Chẳng còn lấy một chỗ trống.
Cô đứng đó, như một đứa ngốc và cảm giác những đứa khác bắt đầu chú ý đến mình, không biết làm sao cho phải. Chắc chắn là cô không muốn đứng chôn chân như này, và thầy giáo trợ giảng cũng chẳng thèm ngó nghiêng đến tình trạng của cô lúc này. Cô quay người nhìn lại lần nữa, tìm kiếm trong vô vọng.
Cô nghe thấy tiếng cười phát ra cách lối đi vài bước, cảm nhận rõ ràng chúng đang nhắm đến mình. Cô ăn vận không giống tụi học sinh ở đây, và trông cô khác hẳn bọn chúng. Hai má cô đỏ rần khi biết mình bắt đầu bị chú ý.
Chỉ đến khi cô chuẩn bị tâm lý bước ra khỏi lớp, thậm chí ra khỏi trường này, thì nghe thấy một giọng nói vọng đến.
“Ở đây này”.
Cô quay người lại.
Ở dãy dưới cùng, phía mé cửa sổ, là một cậu trai cao nghều đứng lên ở chỗ bàn của cậu ta.
“Ngồi đây này”, cậu ta nói. “Không sao đâu”.
Căn phòng yên ắng đôi chút khi những đứa khác chờ cô phản ứng.